Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các tộc
người thiểu số tiếp cận được thị trường trong và ngoài nước nhờ chính sách mở cửa,
Đổi Mới của Nhà nước. Từ đó, đã làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội các tộc
người thiểu số, họ không ngừng sáng tạo ra nhiều dòng sản phẩm thủ công mỹ nghệ
để đáp ứng với nhu cầu thị hiếu của thị trường. Người Chăm vẫn duy trì loại
hình kinh tế nông nghiệp, tận dụng thời gian nông nhàn làm các sản phẩm thủ
công phát triển sinh kế gia đình. Do đó, xu hướng sinh kế của tộc người thiểu số
vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm các sản phẩm thủ công truyền thống để phục vụ nhu
cầu văn hóa và du lịch cho địa phương.
Ninh Thuận có 3 làng nghề truyền thống
của người Chăm là nghề bốc thuốc nam ở Phước Nhơn và An Nhơn, nghề dệt vải thổ
cẩm ở Mỹ Nghiệp và nghề làm gốm thủ công truyền thống Bàu Trúc, thị trấn Phước
Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
1. Nghề dệt vải thổ cẩm
Nghề dệt vải thổ cẩm gắn liền với đời
sống hàng ngày của phụ nữ Chăm vùng Nam Trung Bộ. Xưa kia, mặt hàng thổ cẩm là
sản phẩm triều cống của vương quốc Champa và xuất cảng ra nước ngoài, trao đổi
thương mại với quốc tế. Các làng Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều có nghề dệt
phục vụ cho nhu cầu đời sống. Đặc biệt, là cung cấp cho các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo và cúng lễ trên tháp. Ở Ninh Thuận, có làng dệt thổ cẩm ở làng Mỹ Nghiệp,
thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước còn bảo tồn nhiều hoa văn cổ, sản xuất ra
nhiều mặt hàng với mẫu thiết kế đẹp đáp ứng yêu cầu thị trường.
Người Chăm làm ra sản các phẩm thổ cẩm
từ hai loại khung dệt: khung dệt tấm lớn (Danâng manyim aban) và khung dệt hoa văn
khổ nhỏ (Danâng manyim jih dalah). Thích ứng với thị trường, sản phẩm thổ cẩm
Chăm sớm hội nhập và xuất khẩu sang các nước trong khu vực và Châu Âu. Tại làng
Chăm Mỹ Nghiệp, đã xây dựng được khu sản xuất và khu trưng bày, quảng bá sản phẩm
phục vụ khách tham quan, tìm hiểu về kỹ thuật dệt truyền thống của người Chăm.
Nghề dệt thổ cẩm gắn liền với người phụ nữ, họ gắn bó với nghề dệt suốt cả cuộc
đời. Mặt hàng thổ cẩm Chăm rất được các tộc người ở Tây Nguyên ưa chuộng. Họ
xem mặt hàng thổ cẩm Chăm là vật dùng để làm sính lễ trong hôn nhân. Do đó, con
đường trao đổi hàng hóa giữa người Chăm với Tây Nguyên, giữa đồng bằng và miền
núi được kết nối liên tục trong lịch sử.
2. Nghề làm gốm thủ công
Gốm Bàu Trúc là mặt hàng
đặc biệt cung cấp, phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong đời sống của người Chăm,
được ưa chuộng trên thị trường, hình thành mạng lưới thương mại trong cả nước.
Từ những dòng gốm gia dụng phục vụ đời sống, gốm Bàu Trúc phát triển thêm dòng
gốm mỹ nghệ dùng trong kiến trúc và xây dựng.
Ninh Thuận có tất cả 22 làng Chăm (palei/35 thôn, khu phố),
nhưng chỉ có duy nhất làng Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước còn
bảo tồn nghề làm gốm. Làng Bàu Trúc tiếng Chăm gọi là Palei Hamu Craok (người
Việt phát âm thành Ma Tró). Làng được bao quanh bởi cánh đồng lúa có hệ thống
thủy lợi sông Lu và sông Quao chảy qua hình thành lớp địa tầng đất sét tự
nhiên. Mặc dù, chưa có nghiên cứu nào nói về việc phát hiện mỏ đất sét được ví
như “vàng đen” đã được khám phá ra như
thế nào? Nhưng, trong dân gian tương truyền vị tổ nghề của làng là vợ chồng Po
Klaong Can được người dân thờ phụng như vị thần hoàng của làng. Theo ông Quảng
Trộm (85 tuổi) ở làng Bàu Trúc cho biết thêm về một giả thuyết nói về nguồn gốc
của nghề gốm là do dòng tộc Kut Drai đã truyền dạy cho người dân trong làng bí
quyết về kỹ thuật làm gốm. Ngày nay, con cháu của dòng tộc Kut Drai vẫn đang
duy trì nghề làm gốm của tổ tiên bằng các phương pháp thủ công truyền thống
không sử dụng bàn xoay và không sử dụng kỹ thuật tráng men (Tư liệu điền dã, năm
2018).
Để làm ra một sản phẩm gốm truyền
thống, cần phải tuân thủ theo từng quy trình nhất định. Mỗi công đoạn đều giữ
vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Các quy trình chính để
làm ra sản phẩm gốm là khai thác đất sét, xử lý đất sét, tạo hình khối, hoa văn
trang trí, phơi gốm để tu chỉnh và nung gốm. Sản phẩm của gốm Bàu Trúc rất đa
dạng và phong phú, bao gồm các đồ gia dụng như lu nước, nồi, bình, chậu, ấm,
ly, phù điêu tượng thần và gạch dùng trong kiến trúc xây dựng. Từ những đặc
điểm chế tác, màu sắc, hoa văn trang trí và các dòng sản phẩm cho thấy gốm Bàu
Trúc là sự tiếp nối, kế thừa dòng gốm Sa Huỳnh và gốm Gò Sành của người Champa
nổi tiếng trong lịch sử.
Người
Chăm làm gốm hoàn toàn bằng thủ công, không có sử dụng bàn xoay và không sử
dụng men, sản phẩm được nung ở ngoài trời bằng củi, rơm, trấu. Từ dòng sản phẩm phục vụ nhu cầu thường
ngày và phục vụ trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, gốm Chăm chuyển đổi phát
triển thêm dòng sản phẩm mỹ nghệ. Đến những năm đầu của thế kỉ XXI, gốm Chăm mới
thực sự hội nhập và phát triển. Các dòng sản phẩm mỹ nghệ nhận được nhiều đơn đặt
hàng để đưa mặt hàng gốm Chăm xuất khẩu ra nước ngoài. Từ đó, đã kích thích thị
trường gốm Chăm phát triển, người thợ làm gốm không ngừng sáng tạo ra nhiều mẫu
mã, xác lập nhiều kỷ lục mới về dòng sản phẩm gốm Chăm. Nhờ đó, mà gốm Chăm sớm
hội nhập vào thị trường khu vực ASEAN và quốc tế.
3. Nghề bốc thuốc nam
Ở
làng Chăm An Nhơn và Phước Nhơn, huyện Ninh Hải có nhiều gia đình sinh kế bằng
nghề bốc thuốc nam. Các bài thuốc của người Chăm được lưu truyền qua nhiều thế
hệ. Nguồn gốc của bài thuốc chủ yếu được khai thác trong tự nhiên trong các khu
rừng, đồi núi ven biển ở Ninh Thuận. Theo kinh niệm bí truyền, rễ cây rừng được
chặt mang về sắc nhỏ, phơi khô và pha trộn với nhiều loại thân cây, rễ cây khác
nhau tạo thành một hỗn hợp dùng để đun nấu uống chữa bệnh. Điều đặc biệt, các
bài thuốc nam của người Chăm được đun trong nồi siêu làm bằng chất liệu gốm do
các nghệ nhân làng Bàu Trúc làm ra. Bài thuốc nam của người Chăm đã được nhiều
nhà khoa học chọn làm đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực y học. Bài thuốc nam của
người Chăm không chỉ phục vụ trong cộng đồng mà còn đi ra thị trường trong tỉnh
và ngoài tỉnh.
Mỗi làng nghề thủ công truyền thống của
người Chăm thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo, làng nghề vừa sản xuất các mặt
hàng phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày, vừa là điểm đến tham quan du lịch
thú vị dành cho những du khách ưa thích tìm tòi, khám phá nét đẹp văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam. Quá đó, tạo ra các giá trị kinh tế, nguồn thu nhập
hàng ngày từ các hoạt động dịch vụ và du lịch mang lại.
Bên cạnh việc sản xuất, trao đổi, tiêu thụ tại
chỗ, các sản phẩm thủ công có sức hấp dẫn thị trường trong lĩnh vực du lịch. Vì
vậy, để bảo tồn làng nghề thủ công truyền thống của các tộc người thiểu số cần
gắn liền với định hướng phát triển kinh tế du lịch tại địa phương. Nhằm đảm bảo
sinh kế cho các hộ gia đình để họ gắn bó với nghề và sống được từ nghề thủ công
truyền thống./.
Bá Minh Truyền